Chính phủ ban hành Nghị quyết 13/NQ-CP về phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 1/2022, trong đó, thống nhất sửa đổi Luật tài nguyên nước. Theo Nghị quyết, Chính phủ thống nhất về sự cần thiết và mục tiêu sửa đổi Luật tài nguyên nước để giải quyết các vướng mắc do quy định hiện hành về tài nguyên nước; cập nhật, thể chế hóa quan điểm, chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước, nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các chính sách quản lý, kiểm soát, điều tiết toàn diện, thống nhất quản lý Nhà nước về tài nguyên nước; có kế hoạch truyền thông tốt để tạo sự đồng thuận.

Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan nghiên cứu tiếp thu đầy đủ ý kiến của các Thành viên Chính phủ và hoàn thiện các chính sách cụ thể theo hướng làm rõ nội hàm khái niệm “an ninh nguồn nước (ANNN) và “an ninh tài nguyên nước” (ANTNN); đánh giá kỹ tác động, hoàn thiện chính sách về an ninh tài nguyên nước.  Nghiên cứu, kế thừa nội dung của một số đề án liên quan đến an ninh tài nguyên nước đang được cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định hoặc đã được phê duyệt để bảo đảm tính thống nhất, khả thi.

Đồng thời, việc xã hội hóa một số lĩnh vực tài nguyên nước cần bảo đảm ổn định phúc lợi chung cho xã hội, nhất là hạ tầng cấp nước sinh hoạt, tránh lợi dụng cơ chế làm thất thoát tài sản Nhà nước. Đồng thời, phân cấp rõ ràng cho các địa phương, bảo đảm quản lý Nhà nước thống nhất, không chồng chéo giữa các Bộ, bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật; tổ chức lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia, nhà khoa học trong quá trình soạn thảo luật, bảo đảm tính khả thi, làm tốt công tác truyền thông. Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023.

An ninh nguồn nước trước những thách thức

Là nước có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2.372 con sông và nguồn nước mưa dồi dào, mỗi năm khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình 1.500 – 2.000 mm nhưng tại Việt Nam lại đang tồn tại một nghịch lý: khi mưa nhiều thì lũ lụt, ngập úng; hết mưa thì hạn hán, thiếu nước sạch dùng cho sinh hoạt.

Dòng chảy phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở lưu vực sông Cửu Long (khoảng 57%), sông Hồng-Thái Bình (khoảng 16%), còn lại phân bố ở các lưu vực sông khác. Nguồn nước mặt còn chịu tác động từ việc khai thác, sử dụng ở thượng nguồn bên ngoài biên giới, chịu tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm gia tăng.

Nguồn nước dưới đất có trữ lượng khoảng 63 tỷ m3, hiện đang được khai thác phục vụ phát triển kinh tế – xã hội vào khoảng 84 tỷ m3/năm. Nhu cầu dùng nước ở nước ta tăng 32% (khoảng 111 tỷ m3/năm) vào năm 2030 và nguy cơ mất đảm bảo ANNN ngày càng gia tăng nếu không kịp thời đánh giá và thực hiện các biện pháp đảm bảo ANNN.

Năm 2020, báo cáo giám sát ANNN và an toàn hồ đập của Ủy ban Khoa học của Quốc hội cũng đã chỉ ra một số thách thức ảnh hưởng đến ANNN tại Việt Nam như: chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng nguồn nước; chưa đảm bảo về cấp nước, an toàn hồ chứa, phụ thuộc nguồn nước ở nước ngoài, ô nhiễm, xâm nhập mặn…

Vì vậy, việc xây dựng Đề án đảm bảo ANNN quốc gia là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, nhằm từng bước nâng cao sự bảo đảm ANNN cho các trụ cột ANNN như: Môi trường; Ứng phó với các rủi ro (hạn hán thiếu nước, lũ lụt); Ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng…) thông qua các hoạt động chủ yếu về hoàn thiện, bổ sung thể chế, chính sách; Quản trị ngành nước; Các biện pháp công trình, phi công trình…

Chủ động điều tiết nước, phòng ngừa, ứng phó ô nhiễm

Theo tính toán, lượng nước bình quân/người tại Việt Nam đã giảm khá nhanh từ 12.800 m3 vào năm 1990, còn 9.700 m3 năm 2010 và có khả năng chỉ còn 8.300 m3/người vào năm 2025 khi dân số Việt Nam đạt 100 triệu người.

Trong khi nguồn nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt và bị khai thác quá mức ở nhiều nơi thì nguồn nước ngọt thay thế sẽ là nguồn nước mưa và nước tái sinh. Tuy nhiên, cả 2 nguồn nước này đang chưa được quan tâm đúng mức.

Kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, an toàn, công bằng, hợp lý, gắn với bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Kiểm soát trên 90% các nguồn thải vào nguồn nước có vai trò quan trọng trong cấp nước được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; Cải thiện, phục hồi các nguồn nước bị ô nhiễm, suy thoái nghiêm trọng; Bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái ngập nước quan trọng…

Đồng thời, cần cải thiện việc cung cấp dịch vụ cấp nước đô thị, nông thôn, nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt khoảng 95 – 100%, nông thôn đạt khoảng 93 – 95%; đảm bảo an ninh lương thực thông qua việc vận hành hiệu quả các công trình thuỷ lợi trong điều kiện biến đổi khí hậu…

Theo tainguyenvamoitruong.vn

Chia sẻ